Danh mục sản phẩm

Tin chuyên ngành

Dự báo nguồn cung năng lượng toàn cầu năm 2050

  • Thứ ba, 10:57 Ngày 06/12/2022
  • Đến năm 2050, tỷ lệ năng lượng sơ cấp của nhiên liệu hóa thạch sẽ giảm xuống dưới 50% so với 80% thị phần hiện tại. Điều này đạt được là do quá trình điện khí hóa nhanh chóng, khử cacbon, tăng hiệu quả sử dụng năng lượng và các dự án điện gió, mặt trời phát triển mạnh mẽ với chi phí giảm đáng kể

    ch giảm mạnh

    Nhiên liệu hóa thạch trong cung cấp năng lượng sơ cấp của thế giới sẽ giảm đáng kể từ 80% hiện nay xuống chỉ dưới 50% vào năm 2050.

    Than

    Than tiêu thụ đạt đỉnh 8 Gt (tỷ tấn) mỗi năm vào năm 2014. Kể từ đó, tổng nhu cầu về than đã và sẽ giảm. Trong đại dịch Covid-19 nhu cầu than giảm 7% vào năm 2020. Nhu cầu sự phục hồi sẽ không đạt đến đỉnh trước đó, thay vào đó là việc sử dụng than sẽ giảm gần 2/3 so với mức hiện tại vào năm 2050.

    Dầu mỏ

    Nhu cầu dầu mỏ năm 2020 là 75 triệu thùng mỗi ngày (Mb/d) không bao gồm khí tự nhiên hóa lỏng và nhiên liệu sinh học. Dự đoán mức tiêu thụ dầu mỏ cao nhất vào năm 2025 với 86 Mb/ngày, cao hơn 15% so với hiện nay, trước khi đi vào mức suy giảm ổn định trong dài hạn.

    Nhu cầu dầu mỏ sẽ giảm chậm từ năm 2025 đến năm 2035, sau đó sự suy giảm trở nên tương đối mạnh, trung bình giảm 2,4% mỗi năm trong giai đoạn 2035 – 2050.

    Năm 2050, nhu cầu dầu toàn cầu dự kiến ​​là 56 Mb/d (115 EJ). Như vậy, sẽ là giảm 32% so với hiện nay. Sự sụt giảm này phần lớn liên quan đến giảm nhu cầu trong lĩnh vực vận tải, giảm 45% trong 28 năm tới. Sản xuất sẽ tập trung mạnh hơn bao giờ hết ở Trung Đông và Bắc Phi.

    Khí tự nhiên

    Cung cấp khí tự nhiên sẽ đạt đỉnh vào năm 2036 và giảm dần đến thấp hơn 10% so với mức hiện nay. Tiêu thụ khí đốt sẽ vượt qua dầu và trở thành nguồn năng lượng sơ cấp lớn nhất vào cuối những năm 2040.

    Khí đốt có sức mạnh duy trì nhờ sự đa dạng của việc sử dụng nó: Một nửa trong số nhu cầu về khí đốt là năng lượng cuối cùng trong sản xuất, vận tải, các tòa nhà và nửa còn lại thông qua chuyển đổi cho các mục đích sử dụng cuối cùng khác (như điện, hóa dầu, sản xuất hydro).

    Nhu cầu khí đốt sẽ thay đổi đáng kể giữa các khu vực: Giảm trong các quốc gia OECD; đang phát triển ở Trung Quốc đại lục với đỉnh ở đó vào đầu những năm 2030 và tăng gấp ba lần ở Tiểu lục địa Ấn Độ vào năm 2050.

    Lượng khí hidro dự đoán tăng

    Vào giữa thế kỷ này, chỉ 12% khí đốt sẽ không có carbon, trong số đó hydro sẽ chiếm khoảng một phần tư, với sự cân bằng được tạo nên thông qua công nghệ thu giữ và lưu trữ carbon (CCS) trong điện lực và công nghiệp, và bằng khí metan sinh học (biomethane).

    Trong mô hình hóa nhu cầu khí đốt vẫn giả định rằng, giá khí đốt cao ngày nay vẫn tồn tại đến năm 2024 trước khi dần trở lại mức năm 2021. Chương trình kiểm tra chạy với giá khí đốt cao kéo dài trong 6 và 12 năm cho thấy điều đó sẽ làm suy triển vọng khí đốt như thế nào trên toàn cầu và đặc biệt ở châu Âu – nơi mà việc sử dụng nó sẽ giảm một nửa trong vòng một thập kỷ.

    Năng lượng tái tạo tăng

    Từ nay đến năm 2050, công suất năng lượng mặt trời tăng gấp 22 lần, công suất gió tăng gấp 9 lần, trong đó gió trên bờ gấp 7 lần và gió ngoài khơi gấp 56 lần.

    Điều này được thúc đẩy là do cả chi phí giảm và sự gia tăng của VRES với sự cung cấp một lộ trình rẻ nhất và nhanh nhất cho cả quá trình khử cacbon và an ninh năng lượng. Chi phí năng lượng quy đổi bình quân toàn cầu (LCOE) cho điện mặt trời hiện nay ở mức khoảng 5 UScent/MWh và 12 UScent/MWh cho năng lượng mặt trời + bộ lưu trữ. Điều này sẽ làm giảm khoảng 3 UScent/MWh đối với pin mặt trời vào giữa thế kỷ này.

    1. Điện gió

    Điện lưới từ gió tăng từ 1,6 PWh/năm vào năm 2020 đến 19 PWh/năm vào năm 2050 với Trung Quốc đại lục, châu Âu và Bắc Mỹ dẫn đầu về sản lượng, các nước OECD và Mỹ La Tinh tăng trưởng mạnh từ năm 2030. Châu Âu và OECD Thái Bình Dương sẽ có tỷ trọng gió ngoài khơi cao nhất.

    Các loại tua bin mới và tua bin công suất lớn hơn, các cánh quạt và tháp gió sẽ nâng cao hệ số công suất cho điện gió trên bờ (từ 26% hiện nay lên 34%), và điện gió ngoài khơi từ 38% hiện nay lên 43% vào năm 2050. Điều này, cùng với các tua bin rẻ hơn, là động lực chính của việc giảm 52% chi phí cho gió trên bờ trong giai đoạn 2020 – 2050, với các dự án gió ngoài khơi lắp móng cố định và móng nổi, chi phí lần lượt giảm 39% và 84%. Trong số 6 TW công suất gió lắp đặt vào năm 2050, thì 1,8 TW sẽ là gió móng cố định và 289 GW gió móng nổi ngoài khơi.

    2. Điện năng lượng mặt trời

    Sự tăng trưởng của điện mặt trời rất đáng chú ý: 1 GW mỗi năm được lắp đặt lần đầu tiên vào năm 2004, 10 GW được thêm vào năm 2010 và 100 GW vào năm 2019.

    Vào năm 2021, 150 GW đã được thêm vào bất chấp sự gián đoạn chuỗi cung ứng do COVID-19. Từ năm 2030 trở đi, dự kiến ​​hàng năm sẽ được bổ sung từ 300 đến 500 GW.

    Vào giữa thế kỷ, tổng công suất lắp đặt sẽ là 9,5 TW cho điện mặt trời và 5 TW cho năng lượng mặt trời + lưu trữ. Kết quả là vào năm 2050 thế giới sẽ có 14,5 TW công suất năng lượng mặt trời, gấp 24 lần năm 2020.

    LCOE trung bình của điện mặt trời được kỳ vọng sẽ giảm ở mức ít nhất 40% vào năm 2050, với các dự án riêng lẻ giảm bằng 60% so với chi phí trung bình ngày nay. Điện mặt trời sẽ là nguồn điện mới rẻ nhất trên toàn cầu bởi một mức lợi nhuận đáng kể, mặc dù công suất thấp hơn so với các nguồn VRES khác. Đến năm 2050, 23 PWh/năm của điện mặt trời sẽ được tạo ra trên toàn thế giới.

    3. Lưới điện

    Tổng đầu tư vào lưới trung bình là USD 450 tỷ/năm trong thập kỷ qua. Sự mở rộng của năng lượng tái tạo dẫn đến sự gia tăng đều đặn các khoản đầu tư vào lưới điện, đạt mức 500 tỷ USD/năm vào những năm 2030 và tăng lên 1,1 nghìn tỷ USD/năm vào năm 2050. Tổng số được đo bằng số km – mạch của đường dây truyền tải và phân phối sẽ tăng gần gấp ba lần trong khoảng thời gian từ nay đến 2050.

    Nguồn: BBT Năng Lượng Việt Nam

    Liên hệ
    Miền Bắc
    Kinh doanh
    Mr. Tiến 096.996.5756
    Mr. Hải 039.343.9091
    Ms Phương 097.327.6504
    Mr. Tùng 096.996.8756
    Miền Nam
    Kinh Doanh
    Ms. Cúc 093.866.6995
    Ms. Nga 093.705.9968